Cắt thực quản là gì? Các công bố khoa học về Cắt thực quản
Cắt thực quản là quá trình lấy một phần hoặc toàn bộ của thực quản thông qua phẫu thuật. Thực quản là một bộ phận trong hệ tiêu hóa, nằm giữa hầu hết các cơ qua...
Cắt thực quản là quá trình lấy một phần hoặc toàn bộ của thực quản thông qua phẫu thuật. Thực quản là một bộ phận trong hệ tiêu hóa, nằm giữa hầu hết các cơ quan ở phần trên của dạ dày và cổ họng. Việc cắt thực quản có thể làm với mục đích điều trị các bệnh lý như ung thư thực quản, loạn loét, viêm nhiễm, hoặc trong trường hợp cần phẫu thuật nâng cao chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Cắt thực quản có thể được thực hiện theo một số phương pháp khác nhau, tùy thuộc vào bệnh lý và trạng thái của bệnh nhân. Dưới đây là một số phương pháp cắt thực quản phổ biến:
1. Phẫu thuật cắt thực quản toàn bộ (Esophagectomy): Đây là quá trình loại bỏ toàn bộ thực quản. Sau khi cắt bỏ, một phần của dạ dày hoặc niêm mạc dạ dày sẽ được kéo lên và ghép vào miệng cắt thực quản để thay thế chức năng của thực quản.
2. Phẫu thuật cắt thực quản phần: Trong trường hợp bệnh nhân chỉ có một số phần của thực quản bị tổn thương hoặc bị ung thư, quá trình cắt thực quản phần có thể thích hợp. Phần thực quản bị tổn thương sẽ được cắt bỏ và đường cắt được nối lại, hỗ trợ chức năng tiến hóa của thực quản.
3. Phẫu thuật cắt thực quản bằng cách tách mạch máu (cắt không mạch): Đây là quá trình loại bỏ các mô thực quản bị tổn thương hoặc bị ung thư mà không cần cắt mạch máu. Phẫu thuật này có thể được thực hiện thông qua việc sử dụng các công nghệ tiên tiến như robot hỗ trợ.
Sau quá trình cắt thực quản, bệnh nhân cần điều trị sau phẫu thuật như kiểm soát đau, tập luyện để hồi phục chức năng tiến hóa mới, và thực hiện theo dõi chặt chẽ từ bác sĩ. Liệu trình phục hồi sau cắt thực quản có thể kéo dài và đòi hỏi sự điều chỉnh cả về dinh dưỡng và lối sống để bệnh nhân thích nghi với môi trường mới sau phẫu thuật.
Trong phẫu thuật cắt thực quản, người bệnh thường được đưa vào tình trạng hóa trạng mạch máu (anesthesia) để đảm bảo sự không đau và không nhớ về quá trình phẫu thuật. Quá trình cắt thực quản thường được thực hiện thông qua một phẫu thuật mổ.
Trước khi thực hiện phẫu thuật, bác sĩ sẽ thực hiện các xét nghiệm, quét cổ họng, siêu âm và một số xét nghiệm khác để đánh giá chính xác vị trí và quy mô của bệnh lý. Dựa trên kết quả này, bác sĩ quyết định phương pháp phẫu thuật phù hợp.
Trong quá trình phẫu thuật, có một số phương pháp thường được sử dụng để cắt thực quản:
1. Cắt thực quản mở: Bác sĩ thực hiện một cắt dọc trên bụng hoặc ngực để tiếp cận và loại bỏ phần thực quản bị tổn thương. Đây là phương pháp truyền thống và đòi hỏi phẫu thuật lớn.
2. Cắt thực quản thông qua phẫu thuật hợp chất: Gồm các phương pháp như cắt thực quản laparoscopy và cắt thực quản robot-assisted. Sử dụng công nghệ cao, bác sĩ có thể thực hiện các cắt nhỏ hơn và tiếp cận vào vùng thực quản một cách chính xác.
Sau khi thực hiện cắt thực quản, bác sĩ sẽ thực hiện quá trình tái thiết cơ quan tiêu hóa. Việc tái thiết có thể bao gồm ghép dạ dày, niêm mạc dạ dày hoặc một phần dạ dày để thay thế chức năng của thực quản. Quá trình tái thiết này nhằm giúp duy trì chức năng tiến hóa của cơ quan tiêu hóa và cho phép bệnh nhân tiếp tục ăn uống.
Sau phẫu thuật, bệnh nhân cần thực hiện quá trình phục hồi và hồi phục. Điều này bao gồm việc theo dõi chặt chẽ của bác sĩ, kiểm soát đau, tập luyện để cải thiện chức năng tiến hóa mới và thực hiện một chế độ ăn uống và lối sống khỏe mạnh phù hợp.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "cắt thực quản":
Phương pháp phẫu thuật tối ưu cho carcinoma ở thực quản dưới và điểm nối thực quản-dạ dày vẫn còn gây tranh cãi. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá kinh nghiệm của một đơn vị về cắt thực quản qua lỗ hổng hoành trong bối cảnh sử dụng các liệu pháp hóa trị toàn thân tăng mạnh.
Giữa tháng 1 năm 2000 và tháng 11 năm 2006, 215 bệnh nhân liên tiếp (182 nam, 33 nữ, độ tuổi trung bình = 65 tuổi) đã trải qua phẫu thuật cắt thực quản qua lỗ hổng hoành; ung thư xâm lấn đã được phát hiện trước phẫu thuật ở 188 bệnh nhân. 90 bệnh nhân (42%) đã nhận hóa trị neoadjuvant. Dữ liệu triển vọng đã được thu thập cho những bệnh nhân này và được đối chiếu với dữ liệu sống sót từ đăng ký ung thư.
Có 2 trường hợp tử vong trong bệnh viện (0,9%). Các biến chứng chính bao gồm: các biến chứng về hô hấp ở 65 bệnh nhân (30%), các biến chứng tim mạch ở 31 bệnh nhân (14%) và rò rỉ nối lại rõ ràng về lâm sàng ở 12 bệnh nhân (6%). Thời gian nằm viện trung bình là 14 ngày. Độ triệt để của cắt bỏ tỷ lệ nghịch với giai đoạn T: cắt bỏ R0 đạt được ở 98-100% khối u T0/1 và chỉ 14% khối u T4. Với thời gian theo dõi trung bình là 26 tháng, tỷ lệ sống một và năm năm được ước tính lần lượt là 81% và 48%.
Cắt thực quản qua lỗ hổng hoành là một phương pháp phẫu thuật hiệu quả đối với các khối u ở thực quản dưới và điểm nối thực quản-dạ dày. Phương pháp này có tỷ lệ tử vong và biến chứng thấp, với tỷ lệ sống năm năm gần 50% khi kết hợp với hóa trị neoadjuvant.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10